Làm một bản phác thảo
Mở màn:
– Về ánh trăng: như một người bạn thân.
– Việc phát xuất hiện vẻ đẹp của ánh trăng trình bày qua các bài thơ.
– Ánh trăng vĩnh hằng, bất tử được trình bày qua 3 tác phẩm: Tàu đánh cá, Các đồng chí, Ánh trăng.
Nội dung bài đăng:
– Hình ảnh ánh trăng như trợ thủ, cùng đồng cam cộng khổ với người chiến sĩ trong tác phẩm. Các đồng chí
– Cách xây dựng hình tượng ánh trăng trong thơ Chính Hữu mang tính biểu tượng thâm thúy.
– Hình ảnh ánh trăng trong thơ Huy Cận tràn đầy thú vui, cảm hứng từ cuộc sống lao động vùng biển.
– Ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với người lao động.
– Ánh trăng hòa cùng hơi thở của non sông Hạ Long tạo nên ko khí vừa náo nhiệt vừa thơ mộng.
– Vẻ đẹp của hình tượng ánh trăng trong sự gắn bó với con người nhưng cũng xen lẫn màu sắc triết lí sâu lắng, ấn tượng trong thơ Nguyễn Duy.
– Tác giả Nguyễn Duy như nhìn thấy mặt tối của mình, thấy được sự thờ ơ, lãng quên.
– Bài thơ Ánh trăng là dòng hoài niệm của thi sĩ về những ân tình đã qua của một thuở hạnh phúc.
Hoàn thành:
– Khẳng định về ý nghĩa, vẻ đẹp, sự thuỷ chung của vầng trăng qua hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm.
Phân công
Có thể nói, trăng là sự kết tinh của những gì xinh xắn và tinh túy nhất, vẻ đẹp của nó đủ làm say đắm bao tâm hồn thi nhân. Vầng trăng như một người bạn gắn bó thân thiết với con người, là thú vui để họ đăng đàn, luận thơ. Ánh trăng mạ vàng lung linh nhưng mà ánh sáng dịu dàng lan tỏa muôn nẻo dường như chạm tới tâm hồn thi nhân. Vì vậy, vầng trăng luôn là bến đợi, bến đợi của nhiều tác giả. Các em đã đi sâu khám phá mọi khía cạnh vẻ đẹp của ánh trăng bằng sự cảm nhận tinh tế và thâm thúy. Và sự khám phá đó như được trình bày, thấm đẫm trong từng câu thơ, trang văn. Hình ảnh ánh trăng đã đi vào thơ ca với vẻ đẹp vĩnh hằng, nay nó như tồn tại vĩnh hằng trong các bài thơ Tàu đánh cá của thi sĩ Huy Cận, Các đồng chí của Chính Hữu và Ánh trăng của Nguyễn Duy. Đó đều là những bài thơ tràn trề ánh trăng.
Trong vườn thơ dân tộc, chúng ta đã bắt gặp hình ảnh ánh trăng trong nhiều bài thơ với những ý nghĩa không giống nhau. Nó bao trùm tạo vật, gắn bó với con người dù là gian lao của chiến tranh lúc hòa bình lập lại. Có phải vì thế nhưng mà nó đã được các thi sĩ phát hiện và trình bày một cách vừa thân thiện vừa riêng lẻ trên những trang viết của mình? Đọc bài thơ Các đồng chí của Chính Hữu, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh ánh trăng áo cam và những người lính thời chống Pháp. Thi sĩ đã gợi ra một ko gian rộng lớn của núi rừng Việt Bắc, một hoàn cảnh khắc nghiệt của đêm đông giá rét để vầng trăng xuất hiện làm tan biến mọi nhọc nhằn đó. Nếu qua những cơn “ớn lạnh”, “cơn sốt rùng mình” và những thiếu thốn về vật chất, ta thấy được những biểu lộ mến thương, đùm bọc của tình đồng chí thì khổ thơ cuối lại trình bày những biểu lộ cao quý nhất. , đó là rãnh chung:
Rừng hoang vu sương muối đêm nay
Sát cánh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.
Trong đêm đông vô cùng lạnh giá giữa núi rừng chiến khu, trong khó khăn khắc nghiệt, trong căng thẳng “Chờ giặc tới”, những người lính vẫn “kề vai sát cánh”, vào sinh ra tử có nhau. Và trong hoàn cảnh đó, vầng trăng như một người đồng chí, đồng chí luôn gắn bó và tỏa ra ánh sáng ấm áp làm dịu đi cái lạnh giá của tự nhiên. Ánh trăng soi thông minh vật, soi sáng mọi nẻo đường Quân nhân Cụ Hồ. Nếu người lính lên đường ra trận có ánh sao đầu súng, mũ lưỡi trai thì người lính xung kích địch giữa đêm đông “rừng sương mù” có “trăng đầu súng”. Dưới góc nhìn của người lính, súng và trăng ko còn tách rời nhưng mà hòa quyện vào nhau, làm tan biến hiện thực chiến tranh khó khăn. Hình ảnh ánh trăng trong thơ Chính Hữu khiến người đọc say mê đắm chìm trong ko gian lãng mạn dưới ánh đèn vàng lung linh. Nó như một nguồn sáng vô tận soi rọi bức tranh bằng thứ ánh sáng riêng, màu sắc riêng thấm đẫm tình người. Đó có phải là sự khám phá thâm thúy và sự cảm nhận tinh tế của thi sĩ?
Bài thơ Các đồng chí Quả thực là một bài thơ tràn trề ánh trăng. Nó trình bày rõ phong cách thơ Chính Hữu. Tiếng nói thơ mạnh mẽ, mộc mạc, kiệm lời trong từng hình ảnh, câu chữ gợi nhiều ý nghĩa. Câu thơ cô đọng bên ngoài nhưng ẩn chứa một tâm hồn tha thiết, thiết tha bên trong. Có thể nói, nét lạ mắt và rực rỡ nhất trong cách trình bày của Chính Hữu là sự liên kết thuần thục giữa lối viết hiện thực và màu sắc lãng mạn. Thi sĩ đã xây dựng hình ảnh “súng” và “trăng” mang tính biểu tượng thâm thúy như gần và xa, hiện thực và mộng mơ, tính tranh đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thơ. Đó là biểu lộ rất riêng trong thơ Chính Hữu?
Cũng viết về hình tượng ánh trăng, nhưng trong thời kỳ đổi mới ở miền Bắc, Huy Cận đã có một phát hiện rất khác so với Chính Hữu. Đọc bài thơ Tàu đánh cáNgười đọc như đắm chìm trong những trang văn thấm đẫm ánh trăng của cuộc đời lao động. Nếu trước năm 1945, thơ Huy Cận giàu chất triết lí, đượm buồn thì sau Cách mệnh, thơ của ông lại tràn trề thú vui, nhất là lúc nói về cuộc đời mới, con người mới. Có phải vì thế nhưng mà hình ảnh ánh trăng trong thơ ông cũng tràn đầy thú vui và hứng khởi từ cuộc sống lao động vùng biển? Huy Cận đã lồng ghép vào cuộc sống lao động và khai thác ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với những người dân lao động làm chủ cuộc sống của mình. Thi sĩ đã gợi lên ko khí phấn khởi, tràn đầy sức sống của cảnh đánh cá trên vùng biển rộng lớn rộng lớn. Anh thấm nhuần tự nhiên, công việc và con người để vẽ nên một quang cảnh lao động vừa thực vừa ảo:
Thuyền của tôi căng buồm cùng gió, buồm cùng trăng
Lướt sóng giữa mây cao và biển phẳng
Đi công viên xa để khám phá bụng biển
Dàn lưới vây
Nếu như ở chốn rừng núi hoang vu, vầng trăng như đồng chí, đồng chí thì nay trong công việc đánh bắt của ngư gia, vầng trăng là trợ thủ trong mỗi chuyến ra khơi. Con thuyền “lướt” nhẹ lướt nhanh trên mặt biển êm đềm, phẳng lặng như tấm gương phản chiếu mây trời. Trong vận tốc phi thường của con thuyền, có gió lái thuyền, cánh buồm đầy ánh trăng. Nhưng thi sĩ viết “Thuyền ta căng buồm cùng gió, buồm cùng trăng” thì dường như đã trở thành đoàn xe khách, ko còn là đoàn thuyền của ngư gia! Ánh trăng theo người đi khắp biển khơi, tỏa ra ánh sáng vàng lung linh trong ánh đèn tối soi sáng mọi sinh hoạt của ngư gia. Mặt biển ngập tràn ánh trăng, để lộ những đàn cá đủ màu sắc. Ánh trăng hòa cùng hơi thở của non sông Hạ Long tạo nên ko khí vừa náo nhiệt vừa thơ mộng, khiến người đọc như lạc vào cõi mộng. Đó có phải là phát hiện của Huy Cận về hình ảnh trăng rằm và tình cảm gắn bó với nhân dân lao động làm chủ quốc gia?
Thi sĩ vẽ cảnh lao động dưới ánh trăng bằng con mắt quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện. Huy Cận đã tạo nên những hình ảnh đẹp, lạ mắt qua cách sử dụng màu sắc, sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, tư cách hoá, cảm thán. Mỗi câu thơ đều thấm đẫm sức sống mãnh liệt của người dân vùng biển, cũng thấm đẫm ánh trăng. Đó là biểu lộ rất riêng trong thơ Huy Cận.
Thơ Nguyễn Duy còn đi sâu khám phá vẻ đẹp của hình tượng ánh trăng gắn bó với con người nhưng mà còn mang màu sắc triết lí sâu lắng, ấn tượng. Ánh trăng đó sáng mãi, bất tử trong bài thơ Ánh trăng một bài thơ cô đọng từ trái tim.
Có nhẽ nhìn trăng tác giả sử thấy được mặt tối của mình, thấy được sự thờ ơ, lãng quên. Xưa, Nguyễn Tuân từng coi trăng là “cố tri”, Xuân Diệu trong bài Hôn mặt trăng cũng tha thiết gọi: “Trăng yêu, trăng yêu, trăng khát khao”. Trở lại bài thơ Ánh trăng, bao nhiêu xúc cảm tưởng dường như bị kìm nén nhưng mà cứ thổn thức trong tim. Trong khoảnh khắc bất thần đó, lòng người trở thành “rưng rưng” – “giọt lệ” khiến người ta bình tâm, lắng dịu, điều tốt đẹp được bộc lộ. Nút thắt tâm lý nay đã được mở rộng và tâm tư cũng dần được tháo gỡ. Cuộc gặp mặt giữa trăng và người ko “bắt tay” nhưng mà lắng đọng trong chiều sâu xúc cảm. Xưa Lý Bạch viết:
Cử chỉ trước tiên của kỳ vọng đối với mặt trăng
Đầu tư vào quê hương
Nếu như ở đây, hai câu thơ trên gợi bao xúc cảm cho thơ hướng về quê hương thì trong thơ Nguyễn Duy, vầng trăng lại đưa người đọc trở về những miền kí ức xa xăm trong quá khứ. Nhìn trăng, thi sĩ thấy bao kỉ niệm đẹp ùa về – những kỉ niệm ấm áp tình cảm. “Đồng, sông, bể, rừng” tất cả những thứ thân thuộc với quá khứ đều hiện về trong tâm trí con người. Những thời đoạn của quá khứ và hiện nay cứ nối nhau, có lúc đan xen, có lúc lại tách biệt khiến ta thấy rõ tâm trạng rối bời, rối bời. Trước cái nhìn sám hối của thi sĩ, vầng trăng như gợi lên cái “còn lại” nhưng mà người ta tưởng đã mất. Hai khuôn mặt đối diện nhau ở đây long lanh ko nói nên lời. Nó gợi cho ta nhớ tới mối tình Kim Trọng và Thúy Kiều thuở mới yêu? Ngay chính khoảnh khắc đó, vầng trăng đã trả cho thi sĩ sự vô tư và tình người dồi dào. Bài thơ dường như đã khắc sâu những điều thi sĩ muốn tâm tư, những kỉ niệm đó còn khơi dậy tình cảm sâu nặng của một thời chinh chiến?
Nguyễn Duy đã đem phần trăng đẹp nhất, nhân hậu nhất, trong sáng nhất để soi rọi vào phần đen tối nhất của con người. Vầng trăng là biểu tượng cho quá khứ của tình yêu, cho sự ổn định, cho vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống. Thời kì và ký ức giống như một dòng chảy ko ngừng, nhưng chúng có thể lấy đi lòng trung thành của mặt trăng ở đâu? Sự đầy đủ đó đối lập với sự thiếu hụt của người vô tình. Trăng bao dung làm sao! “Ánh trăng vẫn còn” gợi lên cái nhìn nghiêm nghị khiến thi sĩ giật thót tỉnh giấc mặc dù trăng ko một lời than vãn. Ngắm trăng – tác giả sử thấy được sự quên lãng của mình đối với người tri kỉ của mình trong một thời đã qua. Sự “giật thót” đó thật đáng trân trọng – một sự thức tỉnh của lương tri. Phải chăng qua đó tác giả muốn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi người? Thế mới biết, những bài học thâm thúy về đạo đức con người ko thể tìm thấy trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa vời!
Trong bài thơ, ánh trăng soi sáng ko gian, soi sáng tâm hồn, khơi lại trong tâm trí con người bao nỗi niềm khắc khoải, ấm áp. Tình cảm sâu nặng của thi sĩ hiện giờ là tình cảm chung của cả một thế hệ tình cảm sâu nặng. Dễ dàng nhận thấy rằng, xuyên suốt bài thơ chỉ có một chủ đề nhưng chủ thể đó lại ẩn mình vô danh. Phải chăng qua đó, Nguyễn Duy muốn nói lên tình cảm chung của những người cùng thế hệ? Cả bài thơ là dòng hoài niệm của thi sĩ về những ân tình đã qua của một thời thơ ấu hạnh phúc. Đó ko còn là câu chuyện riêng, tâm tư riêng nhưng mà là tiếng lòng của bao người khác. Cái “tôi” chủ quan nay đã chuyển thành cái “tôi” với nghĩa rộng hơn, nói chung hơn. Cái chung và cái riêng – kỉ niệm và tình yêu cứ hòa quyện vào nhau tạo nên một hồn thơ đầy xúc cảm.
Vì vậy, với tư cách là người đọc dạo trên con thuyền thời kì theo dòng hoài niệm của Nguyễn Duy, chúng ta có thể khẳng định rằng bài thơ Ánh trăng Đó là một bài thơ hay và đầy trị giá. Trị giá đó là kết tinh của những xúc cảm thâm thúy và triết lý thâm thúy. Bài thơ là sự giao thoa của tâm hồn thi sĩ với tình cảm của cả một thế hệ. Chúng hòa quyện vào nhau tạo nên một tư tưởng triết học thâm thúy.
Qua ba tác phẩm Tàu đánh cá, Các đồng chí, Ánh trăng ta thấy rõ sự phát hiện và trình bày hình ảnh ánh trăng của ba thi sĩ. Ánh trăng ko chỉ là ngọn đèn soi sáng đêm đen nhưng mà nó còn là người bạn chân chính trên mọi nẻo đường. Dù khó khăn, khó khăn, nguy hiểm nhưng ánh trăng vẫn là người bạn luôn đồng hành kế bên ta. Ánh trăng chung tình, trọn vẹn, thủy chung son sắt. Đó là một đạo lý đắt giá ko chỉ cho thế hệ những người đã đi qua một trận chiến tranh nhưng mà còn cho cả thế hệ tương lai.
Bạn thấy bài viết Giỏi Văn – Bài văn: So sánh sự khám phá và cách trình bày hình ảnh ánh trăng trong các bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Đồng chí” của Chính Hữu và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Giỏi Văn – Bài văn: So sánh sự khám phá và cách trình bày hình ảnh ánh trăng trong các bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Đồng chí” của Chính Hữu và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy bên dưới để thso2tanthuy.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường tiểu học số 2 Tân Thủy
Phân mục: Ngữ Văn
Nguồn: thso2tanthuy.edu.vn